Trang

Thứ Ba, 26 tháng 12, 2017

ACOG cập nhật hướng dẫn nôn nghén trong thai kỳ 2017

ACOG cập nhật hướng dẫn nôn nghén trong thai kỳ

ACOG Practice Bulletin No. 189: Nausea And Vomiting Of Pregnancy


Nôn nghén trong thai kỳ ảnh hưởng lên 50% - 80% số thai phụ và ACOG khuyến cáo các bác sĩ sản khoa nên bắt đầu điều trị sớm trước khi nó tiến triển đến nôn nghén quá độ (hyperemesis gravidarum). Nôn nghén quá độ là lý do hay gặp nhất khiến bệnh nhận nhập viện trong quý một, và đứng thứ 2 sau dọa sinh non trong nhóm các lý do nhập viện phổ biến nhất trong suốt cả thai kỳ.



Các tác giả nhấn mạnh rằng cần chú ý thời điểm bắt đầu xuất hiện nôn nghén. Thông thường các triệu chứng của nôn nghén xuất hiện trước 9 tuần tuổi thai ở hầu hết các thai phụ bị ảnh hưởng. Khi thai phụ xuất hiện triệu chứng buồn nôn và nôn lần đầu tiên sau 9 tuần tuổi thai, cần cân nhắc chẩn đoán phân biệt với các bệnh lý khác. Cần khai thác tiền sử bệnh lý mãn tính liên quan đến triệu chứng buồn nôn và nôn ví dụ như sỏi mật, chậm tiêu hóa thức ăn do tiểu đường (diabetic gastroparesis).

Khuyến cáo mức độ A

Điều trị nên luôn được bắt đầu với Vitamin B6 (pyridoxine) đơn lẻ hoặc kết hợp với doxylamine, như là thuốc đầu tay, vì nó an toàn và hiệu quả.

Thai phụ nên được khuyến khích bắt đầu sử dụng vitamin tổng hợp trước mang thai 1 tháng vì nó có thể làm giảm tỷ lệ và mức độ nặng của nôn nghén trong thai kỳ.

ACOG khuyến cáo tránh sử dụng thuốc kháng giáp (antithyroid) cho các trường hợp ngộ độc giáp thoáng qua trong thai kỳ (thyrotoxicosis) hoặc nôn nghén quá độ, và khuyến cáo các bác sĩ sản chỉ nên sử dụng liệu pháp hỗ trợ.

Khuyến cáo mức độ B

Gừng tươi chứng tỏ có hiệu quả trong một số trường hợp nôn nghén trong thai kỳ và nó được khuyến cáo như là một liệu pháp không thuốc.

Methylprednisolon có hiệu quả trong các trường hợp nôn nghén dai dẳng trong thai kỳ, nhưng nó chỉ lên được sử dụng cuối cùng, khi các phương pháp điều trị khác không có hiệu quả.

Khuyến cáo mức độ C

Truyền dịch tĩnh mạch hỗ trợ nên được chỉ định cho thai phụ có dấu hiệu mất nước và không thể dung nạp dịch bằng đường uống.

Dextrose và các vitamin nên được coi là liệu pháp cho nôn kéo dài để điều chỉnh nhiễm ketone (ketosis) và mất vitamin, nhưng luôn luôn nhớ sử dụng thiamine (vitamin B1) trước khi truyền dextrose để phòng ngừa bệnh não Wernicke.

Cho ăn qua sonde dạ dày – tá tràng (nasogastric hoặc nasoduodenal) nên được bắt đầu như điều trị đầu tay ở các thai phụ có nôn nghén quá độ mà không đáp ứng với các phương pháp từ đường miệng. Nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch ngoại biên nên được sử dụng như là phương pháp cuối cùng vì nó làm tăng tỷ lệ bệnh tật mẹ đáng kể.

Điều trị nôn nghén trong thai kỳ ngay từ thời điểm khởi đầu có thể phòng ngừa được diễn tiến thành nôn nghén quá độ.

Sau khi điều trị ban đầu và nhập viện để loại trừ các bệnh lý các gây triệu chứng buồn nôn - nôn, thai phụ có thể được điều trị tại nhà.


Tuy nhiên, việc lựa chọn giữa nhập viện theo dõi và đánh giá thêm cho thai phụ nên được cân nhắc đối với các thai phụ có sự thay đổi các dấu hiệu sinh tồn hoặc thay đổi tâm lý – tri giác, tiếp tục sút cân, và đang không đáp ứng với điều trị hiện tại.

Tham khảo:
http://journals.lww.com/greenjournal/Abstract/2018/01000/ACOG_Practice_Bulletin_No__189___Nausea_And.39.aspx

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét