Trang

Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2015

Cập nhật quản lý thai kỳ có nhau cài răng lược theo ACOG 2015

Nhau cài răng lược là một tình trạng sản khoa có khả năng đe dọa tính mạng mà đòi hỏi một cách tiếp cận đa ngành để quản lý. Tỷ lệ nhau thai accreta đã tăng lên và dường như song song tỷ lệ mổ lấy thai ngày càng tăng. Phụ nữ có nguy cơ lớn nhất của nhau cài răng lược là những người bị tổn thương cơ tử cung do sinh mổ trước đó với hoặc nhau tiền đạo mặt trước phủ lên các vết sẹo tử cung. 




Chẩn đoán của nhau cài răng lược trước khi chuyển dạ cho phép lập kế hoạch đa ngành trong nỗ lực để giảm thiểu khả năng của mẹ hay bệnh tật sơ sinh và tỷ lệ tử vong. 

Siêu âm đen trắng là đủ độ nhạy và đặc hiệu cho việc chẩn đoán của nhau cài răng lượcchụp cộng hưởng từ có thể hữu ích trong trường hợp không rõ ràng. Mặc dù yếu tố nguy cơ sản khoa được công nhận cho phép xác định hầu hết trường hợp trong thời kỳ trước sinh, chẩn đoán đôi khi phát hiện tại thời điểm chuyển dạ. 
Nói chung, việc quản lý đề nghị của nghi ngờ nhau cài răng lược được lên kế hoạch cắt bỏ tử cung lấy thai non với nhau thai còn lại tại chỗ vì nỗ lực loại bỏ nhau thai có liên quan đến xuất huyết bệnh tật đáng kể. Tuy nhiên, quản lý phẫu thuật của nhau cài răng lược có thể tùy thuộc vào từng cá nhân. 
Mặc dù một kế hoạch sinh đẻ là mục tiêu, một kế hoạch dự phòng cho một tình trạng khẩn cấp cần được chuẩn bị cho từng bệnh nhân, trong đó có thể bao gồm một tiến trình quản lý xuất huyết ở mẹ.

Placenta accreta là một thuật ngữ chung được sử dụng để mô tả tình trạng lâm sàng khi một phần của nhau thai, hoặc toàn bộ, xâm lấn và không thể tách khỏi thành tử cung (1). Khi các lông nhung màng đệm xâm lấn chỉ lớp cơ tử cung, thuật ngữ Placenta increta là phù hợp; trong khi Placenta percreta mô tả sự xâm lấn thông qua lớp cơ và thanh mạc, và đôi khi vào cơ quan lân cận như bàng quang. Trên lâm sàng, nhau cài răng lược trở thành vấn đề trong quá trình chuyển dạ khi nhau thai không bong hoàn toàn khỏi tử cung và được theo sau bởi xuất huyết sản khoa lớn, dẫn đến rối loạn đông máu nội mạch lan tỏa; sự cần thiết phải cắt bỏ tử cung; chấn thương trong phẫu thuật niệu quản, bàng quang, ruột, hoặc cấu trúc thần kinh mạch máu; hội chứng suy hô hấp người lớn; phản ứng truyền máu cấp tính; mất cân bằng điện; và suy thận. Việc mất máu trung bình khi sinh ở phụ nữ với nhau cài răng lược là 3.000-5.000 mL (2). Có đến 90% bệnh nhân với nhau cài răng lược phải truyền máu, và 40% yêu cầu hơn 10 đơn vị hồng cầu khối. Tỷ lệ tử vong ở bà mẹ với nhau cài răng lược đã được báo cáo là cao nhất là 7% (3). Tử vong mẹ có thể xảy ra mặc dù quy hoạch tối ưu, quản lý truyền máu, và chăm sóc phẫu thuật. Từ một nghiên cứu thuần tập của 39.244 phụ nữ được mổ lấy thai, các nhà nghiên cứu đã xác định 186 mà đã cắt bỏ tử cung lấy thai thực hiện (4). Các dấu hiệu thường gặp nhất là nhau cài răng lược (38%).



Tóm tắt khuyến cáo

  • Women at greatest risk of placenta accreta are those who have myometrial damage caused by an earlier cesarean delivery with either an anterior or posterior placenta previa overlying the uterine scar.   

Phụ nữ có nguy cơ bị nhau cài răng lược là những người bị tổn thương cơ tử cung gây ra bởi mổ lấy thai trước đó với nhau tiền đạo bám mặt trước hoặc mặt sau tử cung phủ qua sẹo mổ.

  • Grayscale ultrasonography is sensitive (77–87%) and specific (96–98%) for the diagnosis of placenta accreta.

Siêu âm đen trắng có độ nhảy (77–87%) và độ đặc hiệu  (96–98%)  trong chẩn đoán nhau cài răng lược.

  • If there is a strong suggestion of the presence of abnormal placental invasion, health care providers practicing at small hospitals or at institutions with insufficient blood bank supply or inadequate availability of subspecialty and support personnel should consider patient transfer to a tertiary perinatal care center.

Nếu có một đề nghị mạnh mẽ sự hiện diện của nhau thai xâm lấn bất thường, những người cung cấp dịch vụ y tế ở bệnh viện nhỏ hoặc các viện nơi mà không có đủ ngân hàng máu hoặc không có chuyên khoa sẵn có để hỗ trợ nên cân nhắc chuyển bệnh nhân đến các trung tâm lớn hơn. 

  • To enhance patient safety, it is important that the delivery be performed in an operating room by an experienced obstetric team that includes an obstetric surgeon, with other surgical specialists, such as urologists, general surgeons, and gynecologic oncologists, available if necessary. Improved outcomes have been demonstrated when women with placenta accreta give birth in specialized tertiary centers.

Để tăng cường an toàn cho bệnh nhân, điều quan trọng là sinh thực hiện trong phòng mổ bới các bác sĩ sản có kinh nghiệm bao gồm bác sĩ phẫu thuật sản với các chuyên gia phẫu thuật khác như niệu, ngoại chung, ung thư phụ khoa nếu cần thiết. Kết quả cải thiện khi phụ nữ với nhau cài răng lược sinh ở trung tâm chuyên ngành.

  • Preoperative patient counseling should include discussion of the potential need for hysterectomy, the risks of profuse hemorrhage, and possible maternal death.

Tư vấn bệnh nhân trước mổ nên bao gồm thảo luận về nguy cơ cắt bỏ tử cung, mất máu và khả năng chết mẹ.

  • Although a planned delivery is the goal, a contingency plan for emergency delivery should be developed for each patient, which may include following an institutional protocol for maternal hemorrhage management.

Mặc dù chầm dứt thai kỳ là mục tiêu, nhưng cần có kế hoạch dự phòng cho từng bệnh nhân trong trường hợp cấp cứu, bao gồm quy trình xử trí mất máu ở mẹ.

  • The timing of delivery should be individualized, depending on patient circumstances. Combined maternal and neonatal outcome is optimized in stable patients with a planned delivery at 34 weeks of gestation without amniocentesis.

Thời gian sinh nên được cụ thể, tùy vào từng bệnh nhân. Kết hợp kết quả của mẹ và sơ sinh được phân tích là ổn định với kế hoạch sinh ở tuần 34 mà không cần phá ối.


  • The decision to administer antenatal corticosteroids and the timing of administration should be individualized.

Liều corticoid và thời gian dùng nên được cụ thể.

  • Generally, the recommended management of suspected placenta accreta is planned preterm cesarean hysterectomy with the placenta left in situ because removal of the placenta is associated with significant hemorrhagic morbidity. However, surgical management of placenta accreta may be individualized.

Nhìn chung, khuyến cáo quản lý các trường hợp nghi ngờ nhau cài răng lược nên được lên kế hoạch mổ lấy thai  + cắt tử cung với nhau thai còn lại, bởi vì việc lấy nhau có liên quan đến tình trạng xuất huyết đáng kể. Tuy nghiên, việc quản lý phẫu thuật nhau cài răng lược cũng có thể cụ thể hóa tùy từng bệnh nhân.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét