CROSS-OVER SIGN (COS) – DẤU HIỆU MỚI TRÊN SIÊU ÂM ĐỂ
TIÊN LƯỢNG KẾT CỤC THAI Ở SẸO MỔ LẤY THAI
Link PDF:
Link PDF:
Tiêu chuẩn chẩn đoán thai ở sẹo mổ lấy thai (TSMLT)
trên siêu âm qua đường âm đạo quý 1 theo Timor-Tritsch, 2013 [2] bao gồm:
- · Hình ảnh lòng tử cung trống, kênh cổ tử cung trống.
- · Phát hiện nhau thai và/hoặc túi thai nằm trong vùng sẹo mổ lấy thai.
- · Trong thai kỳ sớm <= 8 tuần, túi thai có hình tam giác, trên >=8 tuần túi thai có dạng hình tròn hoặc bầu dục.
- · Lớp cơ tử cung giữa túi thai và bàng quang mỏng (1-3mm) hoặc biến mất.
- · Ống cổ tử cung đóng kín và trống rỗng.
- · Sự hiện diện của phôi, phần thai và/hoặc túi noãn hoàng có hoặc không có hoạt động tim thai.
- · Vùng sẹo mổ lấy thai lồi lên và giàu mạch máu cùng với test thử thai dương tính.
- · Không có dấu hiệu trượt túi thai (*)
Người ta đưa ra giả thiết về mối quan hệ giữa túi
thai trong TSMLT, sẹo mổ lấy thai cũ và thành trước tử cung để dự đoán sự phát
triển của TSMLT. Để làm được điều này các nhà nghiên cứu đề xuất một dấu hiệu
siêu âm mới – Cross-over sign (COS). Trên mặt cắt dọc giữa tử cung (sagittal),
kẻ một đường thẳng nối từ lỗ trong cổ tử cung đến đáy tử cung, nằm giữa nội mạc
tử cung ( gọi là đường nội mạc tử cung).
Xác định vị trí túi thai và đường kính trên dưới của túi thai
(superior-inferior diameter, SI), đường này vuông góc với đường nội mạc tử
cung.
Dựa vào tương quan giữa đường nội mạc tử cung và SI, chia ra thành hai
nhóm khác nhau:
Kiểu
bám COS1: Khi túi thai bám vào trong SMLT và >=2/3 SI của
túi thai nằm trên đường nội mạc về phía thành trước tử cung.
Kiểu
bám COS2: Khi túi thai bám vào trong SMLT và <2/3 SI của
túi thai nằm trên đường nội mạc tử cung. Những trường hợp này lại được chia
thành 2 nhóm là COS2+ và COS2- dựa theo vị trí SI có cắt hoặc không cắt đường nội
mạc tử cung.
Hồi cứu kết quả siêu âm quý I (6-8 tuần) của 68 trường
hợp nhau cài răng lược ở quý III, được chia thành 2 nhóm không có sự khác biệt
về tuổi mẹ, số con và tiền sử mổ lấy thai. Kết quả siêu âm được đánh giá độc lập
bởi hai bác sĩ siêu âm, họ không được biết trước về kết cục thai kỳ.
Tuổi thai lúc sinh cao hơn đáng kể ở nhóm COS2-, điều
này có thể vì số ca percreta ở nhóm COS1 cao hơn.
Tỷ lệ số ca percreta cao hơn đáng kể ở nhóm COS1 so
với COS2, tất cả các ca COS1 đều dẫn tới NCRL thể nặng (increta và percreta),
không có ca accreta nào trong nhóm này.
Các ca COS2 được chia làm 2 nhóm COS2+ và COS2-.
Nguy cơ percreta cao hơn đáng kể ở nhóm COS1 so với COS2, hơn nữa, có sự khác
biệt đáng kể về số ca percreta giữa nhóm COS1 và COS2+.
Cuối cùng, nguy cơ percreta cao hơn khi so sánh COS1
với COS2-. Các ca COS2- chiếm nhiều hơn đáng kể số ca dạng nhẹ của NCRL (thể
accrete) so với COS2+ và có nguy cơ thấp hơn đáng kể tiến triển thành percreta
so với nhóm COS1.
Phân tích hồi quy tuyến tính cho thấy kiểu bám COS1
liên quan độc lập với sự hiện diện dạng nặng của NCRL như percreta và increta,
trong khi COS2+ liên quan độc lập với sự hiện diện của thể accreta.
Những phát hiện từ nghiên cứu này nhấn mạnh một thực
tế rằng mối quan hệ giữa sẹo mổ lấy thai cũ và túi thai không phải là yếu tố
quyết định duy nhất trong việc dự đoán tiến triển tự nhiên của TSMLT; khoảng
cách giữa các cực trên của túi thai và thành trước tử cung có thể xác định xem
TSMLT sẽ phát triển theo dạng hướng ra thành trước tử cung và cuối cùng kết
thúc bằng các triệu chứng cấp tính trước khi thai có thể sống được hoặc dạng ít
nghiêm trọng hơn có thể xử trí chủ động.
Theo tác giả kiểu bám COS2- có thể đại diện cho biến
thể nhẹ hơn của TSMLT mà không có đầy đủ tiêu chuẩn chẩn đoán kinh điển trên siêu
âm được đề xuất; trong trường hợp này cực trên của túi thai bám khá xa so với
thành trước tử cung dẫn đến giảm nguy cơ xâm lấn của nhau thai, dẫn đến giảm
hình thành thể nặng của NCRL.
Đặc biệt trong COS2-, kiểu bám cách tương đối xa
thành trước tử cung, có thể dẫn tới tỷ lệ cao chẩn đoán âm tính giả trong giai
đoạn sớm của quý 1. Tại thời điểm siêu âm từ 11-14 tuần, có sự dịch chuyển
tương đối của túi thai về phía lòng tử cung, sẽ dẫn đến sự khó phân biệt của
nhóm này với thai trong tử cung bình thường bám hơi thấp.
Mặt khác, việc túi thai bám gần thành trước tử cung
như trong trường hợp COS1 và COS2+ có thể làm cho TSMLT dễ chẩn đoán được sớm
hơn.
TSMLT, về mặt lý thuyết, có thể tiến triển thành dạng
ít nghiêm trọng hơn của NCRL (thể accreta), dạng mà có thể xử trí chủ động và
có kết cục thai kỳ tốt. Cần có nghiên cứu tiến cứu lớn hơn để xác nhận điều này
và làm sáng tỏ sự tiến triển tự nhiên của TSMLT.
Nguồn tham khảo:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét