Trang

Thứ Tư, 14 tháng 11, 2018

NANG DÂY RỐN TRONG QUÝ 1


NANG DÂY RỐN TRONG QUÝ 1


TỶ LỆ

Nang dây rốn được quan sát thấy ở 2% đến 3% trong siêu âm quý 1. Nang dây rốn được quan sát trong quý 1 có xu hướng thoái triển trong quý 2.


PHÂN LOẠI

Phân loại bệnh học của nang dây rốn bao gồm nang thực sự và nang giả.

Nang rốn thực sự có thể bắt nguồn từ phần còn lại của túi niệu rốn bên ngoài trong thời kỳ phôi thai hoặc từ ống noãn hoàng, và các nang này điển hình thường nằm ở gần vị trí dây rốn cắm vào thai, và được bao phủ bởi biểu mô. Nang ống niệu rốn tự thoái triển nhưng có thể đi kèm với thoát vị rốn, tồn tại ống niệu rốn hoặc bệnh lý tắc nghẽn đường tiết niệu. Các nang trong ống noãn hoàng có thể đi kèm với bất thường thành bụng hoặc túi thừa Meckel. Ngoài ra, nang vùi màng ối (amniotic inclusion cysts) được bao phủ bởi biểu mô màng ối (amniotic epithelium) có thể được tìm thấy ở bên trong nang rốn thực sự. Chúng được tạo ra bởi sự vùi màng ối vào trong dây rốn.
Nang rốn giả hay gặp hơn nang rốn thật và chúng cũng có xu hướng nằm gần vị trí dây rốn cắm vào thai. Các nang giả chủ yếu được tạo ra bởi sự thoái hóa điểm trong thạch Wharton hoặc do sự khuyết thiếu ở vị trí sau khi thoái hóa, và chúng không được biểu mô bao phủ.


NGUYÊN NHÂN

Yếu tố sinh bệnh học vẫn chưa được biết rõ và được cho là do sự biến đổi trong thời kỳ phôi thai ở quá trình tạo dây rốn.
Nang dây rốn thực sự là dấu vết còn lại của hoặc ống niệu rốn (allantois) hoặc ống noãn hoàng (omphalomesenteric duct). Nang rốn giả không có lớp biểu mô và nằm trong lớp phù của thạch Wharton.
Có vẻ như vị trí nang gần bánh nhau hoặc gần thành bụng thai nhi đi kèm với tăng nguy cơ bất thường thai nhi.

ĐẶC ĐIỂM SIÊU ÂM

Trong quý 1 nang dây rốn có vẻ như một cấu trúc echo trống âm nhỏ không bắt màu Doppler và nằm dọc theo dây rốn. Các nang này thường có đường kính từ 3 đến 6 mm, và có thể đơn lẻ hoặc nhiều nang. Sự phân biệt trên siêu âm của một nang dây rốn thực sự với một nang giả là không thể.




Nang dây rốn ở thai 12 tuần




Nang dây rốn ở thai 34 tuần



Hình ảnh nang dây rốn sau sinh


CÁC BẤT THƯỜNG KẾT HỢP/LỆCH BỘI

Ross và cộng sự đã báo cáo loạt ca 29 thai nhi với nang dây rốn được quan sát ở quý 1 và ghi nhận 26% có bất thường thai, bao gồm trisomy 18. Kết cục có thể xấu nếu như nang này nằm ở hai đầu của dây rốn (đoạn cắm vào thai hoặc bánh nhau), nằm lệch trung tâm theo chiều dọc của dây rốn, hoặc nếu hiện diện sau 12 tuần tuổi thai. Ghezzi và cộng sự báo cáo 24 trường hợp nang dây rốn được xác định từ 7 đến 14 tuần tuổi thai. Các nang này đơn lẻ ở 18 ca và nhiều nang kết hợp ở 6 ca. Tất cả các thai nhi với nang dây rốn đơn độc được sinh ra mà không có bất thường cấu trúc và các dấu hiệu nghi ngờ bất thường nhiễm sắc thể. Trong số các thai nhi có nhiều nang kết hợp, 4 thai kỳ sảy thai tự nhiên (hai trong số này thai nhi bị trisomy 18), 01 có bệnh lý tắc nghẽn đường tiết niệu, và 01 được sinh ra bình thường.

Hầu hết các nang được chẩn đoán trong quý 1 không có tác động lâm sàng, nhưng có tới 13% các trường hợp có một vài sự biến đổi cấu trúc, và nếu nang tồn tại trong suốt thai kỳ, tỷ lệ này sẽ tăng lên. Trong quý 1 cần chú ý không nhầm lẫn túi noãn hoàng với nang dây rốn. Khi chẩn đoán được xác định ở tuổi thai lớn hơn – trong quý 2 hoặc 3 – tỷ lệ bất thường đi kèm với các trường hợp này tăng lên đến 50%. Khi các nang này là đơn độc thì tuổi thai được phát hiện không ảnh hương lên kết cục.
Sự tồn tại của nang dây rốn trong suốt thai kỳ có thể đi kèm với kết cục chu sinh bất lợi. Các nang được chẩn đoán ở quý 2 và 3 thường tồn tại dai dẳng hơn. Tuy nhiên nếu nó đơn độc, các nang tồn tại dai dẳng cũng không gây ảnh hưởng gì bất lợi.
Chưa có báo cáo nào về mối liên quan giữa bệnh cảnh này và giới tính thai nhi, tuy nhiên trong một báo cáo 20 trẻ được sinh ra chỉ có 3 trẻ gái và 17 trẻ trai.


KẾT CỤC


Ross và cộng sự đã báo cáo kết cục bình thường ở 74% các thai nhi được ghi nhận có nang dây rốn ở quý 1. Ghezzi và Sepulveda báo cáo 100% kết cục bình thường ở các trường hợp nang đơn độc. Trường hợp có nhiều nang đi kèm với kết cục xấu hơn, với 83% thai kỳ kết thúc với sảy thai tự nhiên hoặc lệch bội.

Hannaford và cộng sự 2013, nghiên cứu so sánh nhóm 45 thai nhi với nang dây rốn ở quý 1 và 85 thai nhi dây rốn bình thường. Tất cả các nang đều thoái triển khi theo dõi trên siêu âm giữa 9 tuần 4 ngày tới 20 tuần 5 ngày. Các thai phụ với thai nhi có nang dây rốn có chỉ số cơ thể thấp hơn so với nhóm có thai nhi không có nang. Không có sự khác biệt đáng kể giữa 2 nhóm về các đặc điểm bất thường (11% và 9.4%). Tỷ lệ thai lưu ở 2 nhóm lần lượt là 2 và 1. Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về tuổi thai lúc sinh và cân nặng.


CHIẾN LƯỢC QUẢN LÝ


Thai phụ với thai nhi có nang dây rốn ở quý 1 cần được đánh giá nguy cơ lệch bội hoặc ở trong quý 1 hoặc bằng sàng lọc sinh hóa. Siêu âm đánh giá chi tiết giải phẫu thai nhi ở 18 đến 20 tuần, bao gồm tìm kiếm các marker của lệch bội được khuyến cáo. Các thai nhi với nang dây rốn đơn độc và thoái triển trong quý 1 mà không có yếu tố nguy cơ nào thêm vào, và có siêu âm hình thái thai nhi bình thường không cần đánh giá gì thêm.



THAM KHẢO


(1) Ghezzi F, Raio L, DiNaro E, Franchi M, Cromi A, Durig P: Single and multiple umbilical cord cysts in early gestation: two different entities. Ultrasound Obstet Gynecol 21:213–214, 2003.
(2) Ross JA, Jurkovic D, Zosmer N, Jauniaux E, Hacket E, Nicolaides KH: Umbilical cord cysts early in pregnancy. Obstet Gynecol 89:442–445, 1997.
(3) Sepulveda W, Leible S, Ulloa A, Ivankovic M, Schnapp C: Clinical significance of first trimester umbilical cord cysts. J Ultrasound Med 18:95–99, 1999.
(4) Hannaford K: Umbilical cord cyst in the first trimester: are thay associated with pregnancy complication?. J Ultrasound Med 32:801-6, 2013.
(5) LeyreRuiz Campo: Prenatal diagnosis of umbilical cord cyst: Clinical significance and prognosis. Taiwanese J of OBGYN 56:622-7, 2017.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét