NANG DÂY RỐN TRONG QUÝ 1
TỶ LỆ
Nang dây rốn được quan sát thấy ở 2% đến
3% trong siêu âm quý 1. Nang dây rốn được quan sát trong quý 1 có xu hướng
thoái triển trong quý 2.
PHÂN LOẠI
Phân loại bệnh học của nang dây rốn bao
gồm nang thực sự và nang giả.
Nang rốn thực sự có thể bắt nguồn từ phần
còn lại của túi niệu rốn bên ngoài trong thời kỳ phôi thai hoặc từ ống noãn
hoàng, và các nang này điển hình thường nằm ở gần vị trí dây rốn cắm vào thai,
và được bao phủ bởi biểu mô. Nang ống niệu rốn tự thoái triển nhưng có thể đi
kèm với thoát vị rốn, tồn tại ống niệu rốn hoặc bệnh lý tắc nghẽn đường tiết niệu.
Các nang trong ống noãn hoàng có thể đi kèm với bất thường thành bụng hoặc túi
thừa Meckel. Ngoài ra, nang vùi màng ối (amniotic inclusion cysts) được bao phủ
bởi biểu mô màng ối (amniotic epithelium) có thể được tìm thấy ở bên trong nang
rốn thực sự. Chúng được tạo ra bởi sự vùi màng ối vào trong dây rốn.
Nang rốn giả hay gặp hơn nang rốn thật
và chúng cũng có xu hướng nằm gần vị trí dây rốn cắm vào thai. Các nang giả chủ
yếu được tạo ra bởi sự thoái hóa điểm trong thạch Wharton hoặc do sự khuyết thiếu
ở vị trí sau khi thoái hóa, và chúng không được biểu mô bao phủ.
NGUYÊN NHÂN
Yếu tố sinh bệnh học vẫn chưa được biết
rõ và được cho là do sự biến đổi trong thời kỳ phôi thai ở quá trình tạo dây rốn.
Nang dây rốn thực sự là dấu vết còn lại
của hoặc ống niệu rốn (allantois) hoặc ống noãn hoàng (omphalomesenteric duct).
Nang rốn giả không có lớp biểu mô và nằm trong lớp phù của thạch Wharton.
Có vẻ như vị trí nang gần bánh nhau hoặc
gần thành bụng thai nhi đi kèm với tăng nguy cơ bất thường thai nhi.
ĐẶC ĐIỂM SIÊU ÂM
Trong quý 1 nang dây rốn có vẻ như một cấu
trúc echo trống âm nhỏ không bắt màu Doppler và nằm dọc theo dây rốn. Các nang
này thường có đường kính từ 3 đến 6 mm, và có thể đơn lẻ hoặc nhiều nang. Sự
phân biệt trên siêu âm của một nang dây rốn thực sự với một nang giả là không
thể.
Hình ảnh nang dây rốn sau sinh
CÁC BẤT THƯỜNG KẾT HỢP/LỆCH BỘI
Ross và cộng sự đã báo cáo loạt ca 29
thai nhi với nang dây rốn được quan sát ở quý 1 và ghi nhận 26% có bất thường
thai, bao gồm trisomy 18. Kết cục có thể xấu nếu như nang này nằm ở hai đầu của
dây rốn (đoạn cắm vào thai hoặc bánh nhau), nằm lệch trung tâm theo chiều dọc của
dây rốn, hoặc nếu hiện diện sau 12 tuần tuổi thai. Ghezzi và cộng sự báo cáo 24
trường hợp nang dây rốn được xác định từ 7 đến 14 tuần tuổi thai. Các nang này
đơn lẻ ở 18 ca và nhiều nang kết hợp ở 6 ca. Tất cả các thai nhi với nang dây rốn
đơn độc được sinh ra mà không có bất thường cấu trúc và các dấu hiệu nghi ngờ bất
thường nhiễm sắc thể. Trong số các thai nhi có nhiều nang kết hợp, 4 thai kỳ sảy
thai tự nhiên (hai trong số này thai nhi bị trisomy 18), 01 có bệnh lý tắc nghẽn
đường tiết niệu, và 01 được sinh ra bình thường.
Hầu hết các nang được chẩn đoán trong
quý 1 không có tác động lâm sàng, nhưng có tới 13% các trường hợp có một vài sự
biến đổi cấu trúc, và nếu nang tồn tại trong suốt thai kỳ, tỷ lệ này sẽ tăng
lên. Trong quý 1 cần chú ý không nhầm lẫn túi noãn hoàng với nang dây rốn. Khi
chẩn đoán được xác định ở tuổi thai lớn hơn – trong quý 2 hoặc 3 – tỷ lệ bất
thường đi kèm với các trường hợp này tăng lên đến 50%. Khi các nang này là đơn
độc thì tuổi thai được phát hiện không ảnh hương lên kết cục.
Sự tồn tại của nang dây rốn trong suốt
thai kỳ có thể đi kèm với kết cục chu sinh bất lợi. Các nang được chẩn đoán ở
quý 2 và 3 thường tồn tại dai dẳng hơn. Tuy nhiên nếu nó đơn độc, các nang tồn
tại dai dẳng cũng không gây ảnh hưởng gì bất lợi.
Chưa có báo cáo nào về mối liên quan giữa
bệnh cảnh này và giới tính thai nhi, tuy nhiên trong một báo cáo 20 trẻ được
sinh ra chỉ có 3 trẻ gái và 17 trẻ trai.
KẾT CỤC
Ross và cộng sự đã báo cáo kết cục bình
thường ở 74% các thai nhi được ghi nhận có nang dây rốn ở quý 1. Ghezzi và
Sepulveda báo cáo 100% kết cục bình thường ở các trường hợp nang đơn độc. Trường
hợp có nhiều nang đi kèm với kết cục xấu hơn, với 83% thai kỳ kết thúc với sảy
thai tự nhiên hoặc lệch bội.
Hannaford và cộng sự 2013, nghiên cứu so
sánh nhóm 45 thai nhi với nang dây rốn ở quý 1 và 85 thai nhi dây rốn bình thường.
Tất cả các nang đều thoái triển khi theo dõi trên siêu âm giữa 9 tuần 4 ngày tới
20 tuần 5 ngày. Các thai phụ với thai nhi có nang dây rốn có chỉ số cơ thể thấp
hơn so với nhóm có thai nhi không có nang. Không có sự khác biệt đáng kể giữa 2
nhóm về các đặc điểm bất thường (11% và 9.4%). Tỷ lệ thai lưu ở 2 nhóm lần lượt
là 2 và 1. Không có sự khác biệt giữa hai nhóm về tuổi thai lúc sinh và cân nặng.
CHIẾN LƯỢC QUẢN LÝ
Thai phụ với thai nhi có nang dây rốn ở
quý 1 cần được đánh giá nguy cơ lệch bội hoặc ở trong quý 1 hoặc bằng sàng lọc
sinh hóa. Siêu âm đánh giá chi tiết giải phẫu thai nhi ở 18 đến 20 tuần, bao gồm
tìm kiếm các marker của lệch bội được khuyến cáo. Các thai nhi với nang dây rốn
đơn độc và thoái triển trong quý 1 mà không có yếu tố nguy cơ nào thêm vào, và
có siêu âm hình thái thai nhi bình thường không cần đánh giá gì thêm.
THAM KHẢO
(1) Ghezzi F, Raio L, DiNaro E, Franchi M, Cromi A, Durig P: Single
and multiple umbilical cord cysts in early gestation: two different entities.
Ultrasound Obstet Gynecol 21:213–214, 2003.
(2) Ross JA, Jurkovic D, Zosmer N, Jauniaux E, Hacket E, Nicolaides
KH: Umbilical cord cysts early in pregnancy. Obstet Gynecol 89:442–445, 1997.
(3) Sepulveda W, Leible S, Ulloa A, Ivankovic M, Schnapp C: Clinical
significance of first trimester umbilical cord cysts. J Ultrasound Med
18:95–99, 1999.
(4) Hannaford K: Umbilical cord cyst in the first trimester: are
thay associated with pregnancy complication?. J Ultrasound Med 32:801-6, 2013.
(5) LeyreRuiz Campo: Prenatal diagnosis of umbilical cord cyst:
Clinical significance and prognosis. Taiwanese J of OBGYN 56:622-7, 2017.



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét